kháng kháng sinh ở việt nam

Việt Nam đã xuất hiện vi khuẩn kháng toàn bộ kháng sinh kể cả loại mạnh nhất, bệnh nhân chỉ còn cách để cơ thể tự chống đỡ.Bác sĩ bất lực, bệnh nhân nằm chờBên lề khóa đào tạo nâng cao chất lượng phòng xét nghiệm kháng kháng sinh vừa diễn ra, PGS.TS Đoàn Mai Phương, nguyên trưởng khoa Vi Diễn đàn Bác sĩ trẻ Việt Nam 13/10/2019 Diễn đàn Bác sĩ trẻ Việt Nam 918 Lượt xem Chia sẻ Các cơ chế đề kháng thuốc của vi khuẩn "chặn đánh" tác động của thuốc ở từng mức kể từ khi xâm nhập, tích lũy, liên kết mục tiêu hoặc độc tính ở hạ lưu. Bác sỹ Hà Thị Huệ cho biết: Kháng sinh đồ là phương pháp xác định việc kháng sinh còn có tác dụng với vi khuẩn gây bệnh hay không và tác động của kháng sinh đối với vi khuẩn đó ở mức độ nào. Đồng thời, kháng sinh đồ cũng phục vụ nghiên cứu sự đề kháng hoặc Lượng kháng sinh đã sử dụng trong NTTS ở một số nước - đơn vị g.a.i-tấn sản phẩm thu hoạch - Nguồn: FAO 2012. >> TS Scott Newman, Điều phối viên Kỹ thuật cao cấp FAO tại Việt Nam cho biết, FAO rất quan tâm giúp Việt Nam xác định các ưu tiên và lĩnh vực chính cần Nhiều phụ huynh lo lắng rằng trẻ uống thuốc kháng sinh có tiêm phòng được không, vì sợ rằng vắc xin có thể gây ra tình trạng kháng thuốc kháng sinh. Tuy nhiên, vắc xin thực chất không gây ra tình trạng kháng thuốc kháng sinh nào, mà còn hoàn toàn ngược lại: vắc xin hỗ trợ ngăn ngừa tình trạng kháng thuốc kháng sinh. menerapkan proses kerja pembuatan prototype produk barang jasa. Thực trạng kháng kháng sinh KKS đã trở thành vấn đề toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển - nơi mà các loại bệnh truyền nhiễm còn chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu bệnh tật. Những năm gần đây, các kết quả nghiên cứu về lĩnh vực y tế tại Việt Nam cho thấy, vi khuẩn KKS hiện đang ở mức độ cao với các chủng đa dạng, kháng đa kháng sinh và cơ chế lây truyền phức tạp. Đặc biệt, nghiên cứu của TS. BS Trần Huy Hoàng đã phát hiện được các vi khuẩn gram âm mang các gen như NDM-1, KPC kháng lại carbapenem là nhóm kháng sinh mạnh nhất hiện nay và thuộc nhóm “lựa chọn cuối cùng” của các chủng vi khuẩn Gram âm phân lập trên các bệnh nhân nhiễm khuẩn bệnh viện và trong môi trường bệnh viện. Không chỉ trong môi trường bệnh viện, các chủng vi khuẩn kháng các kháng sinh mạnh nhất hiện còn xuất hiện ở ngoài cộng đồng. Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực y tế đã khẳng định, xu hướng KKS tại Việt Nam ngày càng gia tăng và nguy hiểm là sự lây lan nhanh chóng các gen mã hoá tính KKS thông qua trung gian plasmid. Thực tế, từ năm 2010, ngành y tế Việt Nam đã nhận thức sâu sắc mức độ nghiêm trọng của vi khuẩn KKS đe doạ tới công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Theo đó, nhiều giải pháp đã được triển khai, như Nâng cao công tác phòng chống nhiễm khuẩn trong bệnh viện; xây dựng kế hoạch hành động phòng chống vi khuẩn KKS giai đoạn 2010 - 2020; thực hiện một số nghiên cứu dưới sự hỗ trợ của các tổ chức nước ngoài và Bộ Khoa học và Công nghệ. Tuy nhiên, do công nghệ, kỹ thuật nghiên cứu còn phụ thuộc vào đối tác nước ngoài nên việc khắc phục tình trạng KKS ở Việt Nam chưa đạt kết quả khả quan. Theo đó, việc thực hiện Đề tài nghiên cứu “Đánh giá thực trạng kháng kháng sinh của vi khuẩn tại Việt Nam, xác định đặc điểm cấu trúc gen và yếu tố liên quan của các vi khuẩn kháng thuốc thường gặp ở Việt Nam” là cần thiết, nhằm mang lại thêm giải pháp nhanh chóng và hiệu quả để khắc phục tình trạng KKS ở Việt Nam. Nhóm nghiên cứu do TS. BS Trần Huy Hoàng làm chủ nhiệm đã thực hiện nhiều phương pháp nghiên cứu sâu với các kỹ thuật tiên tiến, như Định danh nhanh vi khuẩn, nấm bằng hệ thống máy định danh khối phổ - MALDI Biotyper ứng dụng công nghệ MALDI TOF MS; kỹ thuật PCR phát hiện gen KKS của các chủng vi khuẩn; kỹ thuật kháng sinh đồ - khoanh giấy khuếch tán; kỹ thuật xác định nồng độ kháng sinh tối thiểu ức chế vi khuẩn; điện di xung trường PFGE, MLST, Southern blot và kỹ thuật giải trình tự toàn bộ hệ gen vi khuẩn bằng máy giải trình tự gen thế hệ mới Miseq để nghiên cứu nhằm đánh giá các đột biến của vi khuẩn kháng kháng sinh, sự lây lan của vi khuẩn này trong các bệnh viện, giữa các bệnh viện và trên thế giới ở mức độ phân tử;… Dưới sự hỗ trợ về trang thiết bị, sinh phẩm và chuyển giao công nghệ tiên tiến nhất hiện nay từ các chuyên gia hàng đầu thế giới cho các thành viên trong nhóm nghiên cứu đã giải quyết được triệt để các vấn đề về công nghệ và ngang tầm với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Hệ thống giải trình gen Miseq của Illumina nghiên cứu nhằm xác định các đột biến của vi khuẩn kháng kháng sinh. Góp phần làm giảm tình trạng kháng kháng sinh Sau 3 năm nghiên cứu kiên trì và bài bản, kết quả thu được từ dự án nghiên cứu có ý nghĩa thiết thực trong tiến trình chống lại vi khuẩn KKS ở Việt Nam. Việc phân tích sâu các vi khuẩn KKS ở mức độ phân tử đã giúp nâng cao hiệu quả điều trị, phòng chống sự lây lan, giảm gánh nặng chi phí do vi khuẩn KKS gây nên cho gia đình và xã hội. Đồng thời, giúp nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của Việt Nam sánh ngang với các quốc gia trong lĩnh vực xét nghiệm chuyên sâu KKS. Nhóm nghiên cứu đã hoàn thành báo cáo về tỷ lệ gen kháng, phân bố tính kháng theo loại bệnh, địa diểm, giới, tuổi, khoa điều trị. Tình trạng KKS ở cộng đồng, tình trạng lây truyền vi khuẩn kháng thuốc của 6/10 loại vi khuẩn; hoàn thành báo cáo đặc điểm cấu trúc gen của một số vi khuẩn KKS bao gồm E. coli, K. pneumoniae, P. aeruginosa tại bệnh viện. Tuy nhiên, theo TS. BS Trần Huy Hoàng, sản phẩm lớn nhất của nghiên cứu là xây dựng thành công kỹ thuật khoanh giấy kháng sinh khuếch tán, kỹ thuật PCR phát hiện gen KKS đạt ISO 15189 và quy trình ứng dụng phần mềm phân tích hệ gen để hình thành và vận hành phòng xét nghiệm tham chiếu quốc gia về giám sát KKS tại Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương. Cùng với đó là việc xây dựng thí điểm mạng lưới vệ tinh giám sát KKS với quy trình kháng sinh đồ cụ thể tại 4 bệnh viện, gồm Thanh Nhàn, Xanh Pôn, Quân đội 108, Hữu nghị Việt Xô và 4 cộng đồng, gồm Hà Nam, Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương. Tổ chức Y tế Thế giới WHO xếp Việt Nam vào danh sách các nước có tỷ lệ kháng thuốc kháng sinh cao nhất thế giới, do đó sự ra đời của phòng xét nghiệm tham chiếu quốc gia về genome tại Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương có ý nghĩa đặc biệt. Phòng xét nghiệm này có chức năng khẳng định kết quả nuôi cấy, phân lập, định danh và làm kháng sinh đồ. Đồng thời, thu thập, phân tích và báo cáo số liệu định kỳ về KKS để Bộ Y tế và các cơ quan liên quan tìm ra giải pháp ứng phó kịp thời, cũng như xây dựng chiến lược phòng chống kháng thuốc ở tầm quốc gia và khu vực cũng như trên thế giới. Theo Thứ trưởng Bộ Y tế - GS. TS Trần Văn Thuấn, một trong những nguyên nhân làm gia tăng tình trạng vi khuẩn KKS trong cộng đồng là do người dân cứ ốm là ra hiệu thuốc mua thuốc kháng sinh về điều trị, thậm chí còn mượn đơn kháng sinh của người khác về dùng cho mình, cho con mình. Còn lại do một số bác sỹ ở các cơ sở y tế chưa được trang bị đầy đủ kiến thức về sử dụng kháng sinh hợp lý hoặc kê thuốc kháng sinh quá liều, không phù hợp cho bệnh nhân. Do đó, bên cạnh việc tăng cường bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ y bác sỹ thì việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho người dân là rất cần thiết. Đặc biệt, cần bổ sung xây dựng các chính sách để quản lý, nghiên cứu khoa học nhằm khắc phục tình trạng KKS ở Việt Nam. Bảo Lâm Tình trạng đáng báo động về AMR Kể từ khi ra đời, kháng sinh đã thay đổi hoàn toàn ngành y tế, giúp cứu sống nhiều người trên toàn cầu. Tuy nhiên, chính việc lạm dụng kháng sinh trong các bệnh viện, cộng đồng và nông nghiệp đang dẫn tới tình trạng kháng kháng sinh khiến cho con người phải gánh chịu hậu quả nặng nề. Tổ chức Y tế Thế giới WHO cũng đưa ra cảnh báo tình trạng kháng thuốc kháng sinh ngày càng gia tăng và cũng nguy hiểm như đại dịch Covid-19, thậm chí có nguy cơ đảo ngược những tiến bộ y học trong một thế kỷ. Ước tính mỗi năm, khoảng người tử vong trên toàn cầu vì kháng thuốc kháng sinh. Con số này có thể tăng lên đến 10 triệu người vào năm 2050 nếu thế giới không hành động mạnh mẽ. Điều đó tiếp tục dấy lên hồi chuông cảnh báo về mức độ nguy hiểm của AMR, cần sự chung tay vào cuộc quyết liệt để ngăn chặn. Việt Nam đã thực hiện một số biện pháp để chống lại AMR như Kế hoạch Hành động quốc gia về phòng chống kháng thuốc giai đoạn từ năm 2013 - 2020, Bộ tiêu chí đánh giá bệnh viện an toàn được ban hành vào tháng 7/2020. Chương trình Quản lý sử dụng kháng sinh đã nhận được sự chung tay nỗ lực từ các tổ chức khác nhau, tiêu biểu là Chương trình An ninh Y tế Toàn cầu của CDC. Một chương trình giám sát quốc gia đã được khởi động từ năm 2016 với 16 phòng thí nghiệm vi sinh dưới sự quản lý của CDC. Các chương trình này đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát các xu hướng kháng thuốc. Mới đây, dưới sự tài trợ của MSD, Hội đồng kinh doanh vì sự hiểu biết quốc tế BCIU đã tổ chức một diễn đàn cấp cao với chủ đề “Cuộc chiến chống lại kháng kháng sinh ở Việt Nam và Đông Nam Á” với sự tham gia của những chuyên gia đầu ngành tại Việt Nam. Diễn đàn là một cuộc đối thoại mở nhằm thảo luận những thông tin mới nhất về AMR và tìm hiểu các ưu tiên của Chính phủ nhằm ngăn chặn sự tiến triển của AMR. Ngoài ra, những vấn đề khác như cơ hội hợp tác cho các bên liên quan để cùng triển khai giải pháp mới về giám sát, quản lý AMR, tiếp cận và tài trợ… cũng được đưa ra thảo luận. Cam kết hỗ trợ từ MSD Theo các chuyên gia y tế, một trong những giải pháp để đối phó với AMR là phải nghiên cứu phát triển thuốc kháng sinh mới, tuy nhiên có ít các loại kháng sinh mới và tiên tiến được giới thiệu kể từ năm 2010 cho đến nay. Các đánh giá gần đây của Tổ chức Y tế Thế giới WHO và Tổ chức Từ thiện Pew Pew Charitable Trusts cũng chỉ ra rằng các nghiên cứu lâm sàng trên thế giới trong lĩnh vực điều trị vi khuẩn vẫn chưa đủ để chống lại mối đe dọa ngày càng tăng của các bệnh nhiễm trùng kháng thuốc. Trong khi nhiều công ty dược phẩm lớn đã rút khỏi việc phát triển kháng sinh do chật vật với việc thu hồi vốn đầu tư, thì MSD vẫn duy trì cam kết nghiên cứu và phát triển thuốc kháng sinh trong hơn 80 năm qua và đã đưa ra các phương pháp điều trị mới qua mỗi thập kỷ. AMR là một vấn đề phức tạp mà không có giải pháp đơn giản hoặc đơn lẻ nào có thể giải quyết được, nhưng MSD cam kết đầu tư chuyên môn và nguồn lực cùng với các đối tác để cung cấp những loại kháng sinh cần thiết. Theo đại diện MSD, trong 10 năm tới, MSD sẽ đầu tư 100 triệu USD vào Quỹ Hành động AMR vì mục tiêu chung là đưa 2 - 4 loại kháng sinh mới tới bệnh nhân và bác sĩ vào cuối thập kỷ. Ngoài ra, MSD cũng phối hợp với các cơ quan y tế công cộng, các chuyên gia chăm sóc sức khỏe và các công ty chẩn đoán để thông báo về việc sử dụng kháng sinh hợp lý bằng cách chia sẻ dữ liệu giám sát. Một trong những chương trình giám sát AMR lớn nhất - chương trình Giám sát xu hướng đề kháng kháng sinh SMART - đã thu thập được khoảng chủng vi khuẩn phân lập từ 217 địa điểm khác nhau ở 63 quốc gia kể từ năm 2002. Dữ liệu này có thể giúp hạn chế sự phát triển của AMR bằng cách cung cấp các phác đồ điều trị đầy đủ và hướng dẫn kê đơn để bảo đảm kháng sinh được sử dụng một cách hợp lý. Tại Việt Nam, chương trình Quản lý sử dụng kháng sinh AMS của MSD đã được triển khai tại một bệnh viện lớn ở TP. Hồ Chí Minh từ năm 2012 và được mở rộng đến 17 bệnh viện trọng điểm. Năm 2020, MSD cũng đã phối hợp với Bộ Y Tế mở rộng chương trình này tại 36 bệnh viện. Nguồn MSD Theo WHO, mối đe dọa ngày càng tăng về kháng kháng sinh ở Việt Nam bắt nguồn từ việc sử dụng kháng sinh không hợp lý ở tất cả các cấp của hệ thống chăm sóc sức khỏe, chăn nuôi và cộng đồng. Siêu vi khuẩn xuất hiệnVào một ngày chủ nhật cuối tháng 5/2016, điều mà các bác sĩ lo sợ từ lâu đã đến một bệnh nhân tại Mỹ nhiễm một chủng vi khuẩn dường như hoàn toàn kháng với các loại thuốc kháng được Washington Post miêu tả là một phụ nữ 49 tuổi, sống ở bang Pennsylvania, không hề du lịch ra khỏi Mỹ trong vòng 5 tháng gần nhất, và trong nước tiểu có chứa một chủng vi khuẩn E. coli kháng lại colistin, “loại thuốc kháng sinh mạnh cuối cùng” mà con người có thể sử là dấu hiệu cảnh báo khiến các bác sĩ trên toàn thế giới và giới chức nước Mỹ không ngừng lo sợ, bởi mặc dù bản thân E. coli không được xem là một chủng đặc biệt nguy hiểm, đồng thời sau đó bệnh nhân cũng đã hồi phục và cũng không có dấu hiệu cho thấy chủng vi khuẩn của người này biến thành một dịch bệnh, nó đã gióng lên hồi chuông về một điều khủng khiếp hơn nỗi sợ hãi rằng các gen kháng kháng sinh sẽ bắt đầu nhân rộng sang những chủng vi khuẩn khác nguy hiểm tự nhiên, vi khuẩn và nấm nguồn gốc tạo ra các loại kháng sinh đã chiến đấu với nhau từ hàng trăm triệu năm. Theo thời gian, một số vi khuẩn phát triển những cơ chế để chống lại sự tấn công của nấm, chẳng hạn như làm thành tế bào dày hơn, ít thấm hơn, tăng khả năng trung hòa các enzyme do nấm tạo ra hoặc tiết ra các chất đe dọa khả năng chống chịu của vi khuẩn đã phát triển một cách vượt bậc trong thời đại kháng sinh. Khi tiếp xúc với thuốc kháng sinh thường xuyên, liên tục, phần lớn vi khuẩn gây nhiễm trùng sẽ bị tiêu diệt nhưng một số ít sống sót và dần dần tiến hóa ra các gen chống đỡ được thuốc. Quần thể vi sinh vật ngày càng được tạo nên từ các vi khuẩn mang gen kháng thuốc – gọi là “siêu vi khuẩn”. Do có cấu tạo khá đơn giản, những vi khuẩn này dễ dàng trao đổi gen với các loại vi khuẩn khác, khiến chúng phát triển khả năng kháng nhiều loại kháng sinh thực tế, những siêu vi khuẩn như vậy đã hiện diện ở Việt Nam. Tại hội nghị khoa học toàn quốc năm 2017, một nhóm các bác sĩ đã bày tỏ lo ngại về tình trạng các cơ sở khám chữa bệnh tuyến cuối như bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, Bạch Mai, Nhi Trung ương, Phổi Trung ương… đang phải đối mặt với tốc độ lan rộng của những vi khuẩn đa kháng kháng 2 nhóm kháng sinh trở lên và toàn kháng kháng với tất cả kháng sinh. Thậm chí đã có những bệnh nhân tử báo cáo, tỉ lệ kháng thuốc của nhóm vi khuẩn đường ruột ở Việt Nam đã lên tới 30-40%, kháng luôn cả kháng sinh mạnh nhất là colistin. Tại một số tỉnh phía Nam, tỉ lệ kháng thuốc của lên tới hơn 74%. Tỉ lệ kháng của vi khuẩn gây nhiễm trùng K. pneumoniae lên tới gần 60%; trong khi vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện kháng với hầu hết các loại kháng sinh ở mức trên 90%.Tổ chức Y tế Thế giới WHO xếp Việt Nam vào nhóm các nước có tỉ lệ kháng kháng sinh cao nhất thế giới. Trong khi nhiều quốc gia phát triển đang còn sử dụng kháng sinh thế hệ một có hiệu quả thì Việt Nam đã phải sử dụng tới kháng sinh thế hệ ba và bốn.“Với những trường hợp toàn kháng, bác sĩ cũng đành bất lực, chỉ có thể giúp bệnh nhân truyền dịch, nâng cao thể trạng, tăng cường dinh dưỡng để cơ thể tự chống đỡ với vi khuẩn”, TS. Đoàn Mai Phương, khi đó làm việc tại khoa vi sinh của bệnh viện Bạch Mai, chia dụng thuốc ở cả người và động vậtNhững con số trên đã lôi vấn đề kháng kháng sinh ra khỏi bóng tối để phơi bày một thực trạng chúng ta đang sử dụng kháng sinh một cách bừa bãi. Từ năm 2009 đến nay, số lượng thuốc kháng sinh ở Việt Nam bán ra ngoài cộng đồng đã tăng hơn 2 lần. Hơn 70% kháng sinh trong nước hiện được dùng cho nông nghiệp, chăn nuôi và thú y, số còn lại là dùng cho Phạm Đức Phúc, Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Y tế công cộng và Hệ sinh thái ở trường ĐH Y tế công cộng, chỉ ra 3 nguyên nhân nổi trội đang làm khả năng đột biến của vi khuẩn ở Việt Nam tăng tiên, đó là việc các bác sĩ đã kê đơn quá mức và làm dụng thuốc kháng sinh. Vì thiếu năng lực của hệ thống phòng xét nghiệm nên không phải lúc nào các bác sĩ cũng có đủ thông tin để biết được vi sinh vật mà bệnh nhân bị nhiễm có mang gen kháng thuốc hay không. Do vậy, để đối phó với bệnh nhiễm trùng chưa xác định, họ thường dùng cách tiếp cận kháng sinh “bao vây” – tức kê đơn một vài ngày, nếu không khỏi thì đổi sang kháng sinh thực tế, khảo sát của Bệnh viện Chợ Rẫy cho biết có khoảng 50% kháng sinh được bác sĩ kê đơn bất hợp lý; 32% bác sĩ chỉ định sử dụng kháng sinh cho các bệnh nhân không nhiễm khuẩn; 33% bác sĩ sử dụng kháng sinh kéo dài và không cần hai, việc quản lý thuốc kháng sinh còn khá lỏng lẻo, người dân có thể dễ dàng mua kháng sinh tại các hiệu thuốc mà không cần bác sĩ kê đơn. Tại thành thị, 88% kháng sinh được bán mà không cần kê đơn, ở nông thôn tỷ lệ này là 91%- theo thống kê của Bộ Y này đặc biệt nghiêm trọng ở trẻ em do nhiều trẻ được các ông bố, bà mẹ tự ra hiệu thuốc mua kháng sinh theo kinh nghiệm, theo lời gợi ý của người bán tại hiệu thuốc, theo đơn của người khác hay theo “bác sĩ google” – bất chấp căn bệnh đó có thực sự cần đến kháng sinh hay không. Mỗi năm, người Việt Nam tiêu thụ kháng sinh nhiều hơn gấp đôi lượng kháng sinh trung bình của người dân EU, dù có thể không ốm ba là việc sử dụng quá mức kháng sinh trong chăn nuôi với mục đích vỗ béo hoặc phòng ngừa bệnh tật. Mặc dù Bộ NN&PTNT đã đưa ra một danh sách các kháng sinh cấm và hạn chế sử dụng cho chăn nuôi nhưng trên thực tế, do thiếu các cơ chế kiểm soát hiệu quả, các thương lái vẫn bán sản phẩm chứa kháng sinh trôi nổi trên thị trường để trộn vào thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy sản. Người chăn nuôi thường không đủ chuyên môn để biết điều này, hoặc nếu biết cũng có thể tặc lưỡi bỏ qua vì lợi ích kinh khi đó, các bác sĩ thú y vẫn chưa có một hướng dẫn cụ thể, hoàn thiện về sử dụng kháng sinh có trách nhiệm cho động vật. Do vậy, việc kiểm soát sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi thực sự đang trông chờ vào sự tự giác của các chủ trang TS. Phúc, nếu mỗi nơi chúng ta đều sử dụng kháng sinh nhiều hơn một chút thì tổng tồn dư kháng sinh trong cộng đồng sẽ cực kì lớn và tạo ra hậu quả khôn lường. “Mọi người cứ nghĩ rằng bệnh của động vật và người là tách biệt. Nhưng khi con người và động vật cùng chia sẻ các loại vi khuẩn với nhau, thì sớm hay muộn, các siêu vi khuẩn mang gen kháng thuốc cũng sẽ phát triển được khả năng lây chéo từ loài này sang loài khác. Viễn cảnh tồi tệ nhất chính là tình trạng không còn thuốc nào để chống lại vi khuẩn gây bệnh,” anh lo một sự liên kết mạnh mẽ hơnCác nhà nghiên cứu cho rằng hầu hết các giải pháp mà chúng ta dùng cho các đại dịch đều có thể áp dụng cho cuộc chiến với kháng kháng sinh. Chẳng hạn, ta phải có hệ thống giám sát và các phòng thí nghiệm đủ tiêu chuẩn để lập bản đồ theo dõi tình trạng sử dụng kháng sinh cũng như cảnh báo về sự xuất hiện của vi khuẩn kháng thuốc. Bên cạnh đó, cần tăng độ bao phủ vaccine để tránh mắc các bệnh do vi khuẩn gây nên. Ngoài ra, còn cần thực hiện an toàn sinh học và kiểm soát nhiễm trùng để ngăn vi khuẩn kháng thuốc lây lan trên diện rộng, và đầu tư vào các nghiên cứu kháng kháng sinh cũng như tác động của chúng tới kinh tế - xã hội để cung cấp thông tin đúng đắn cho các nhóm đối cấp độ quốc gia, Chính phủ và các bộ ngành có thể làm rất nhiều việc để khuyến khích sử dụng kháng sinh một cách thích hợp và có trách nhiệm. Một số người gọi đây là quản lý kháng sinh, nhưng thực sự nó chính là việc chỉ dùng kháng sinh khi chúng thật sự cần nhiều cách để đạt được điều này, chẳng hạn như thiết lập các quy định bắt buộc phải có kê đơn bác sĩ mới được sử dụng kháng sinh, cung cấp cho bác sĩ những công cụ chẩn đoán chính xác để đảm bảo rằng bệnh nhân nhiễm trùng thực sự do vi khuẩn kháng thuốc trước khi kê đơn, hoặc thực hiện các chiến dịch thông tin đại chúng về mối hiểm họa của tình trạng kháng kháng sinh cho người nhà quản lý cũng có thể thúc đẩy việc cải tiến các hệ thống sản xuất – chẳng hạn như giảm mật độ chăn nuôi và sử dụng các giống khỏe mạnh hơn – để giảm nhu cầu về kháng sinh trên động vật, hay hướng các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi đầu tư vào những sản phẩm thay thế kháng sinh. Những năm gần đây, một vài công ty đã bắt tay với các trang trại bản địa để thử nghiệm những sản phẩm từ bồ công anh, tỏi, lá ổi, quế… nhằm chứng minh có thể nuôi lớn những đàn lợn, gà lớn mà không cần đưa chúng vào chế độ ăn kèm kháng nguồn tài chính từ các tổ chức quốc tế từ Mỹ, Anh cùng hỗ trợ kỹ thuật của WHO và FAO, Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực Tây Thái Bình Dương thực hiện "Kế hoạch hành động quốc gia về chống kháng thuốc" tập trung vào sức khỏe con người giai đoạn 2013-2020 và hai lần đưa ra "Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý sử dụng kháng sinh và phòng chống kháng kháng sinh trong chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản" giai đoạn 2017-2020 và giai đoạn 2021-2025.Trong hơn 10 năm, các nhà hoạch định chính sách đã cố gắng ngăn chặn việc lạm dụng kháng sinh. Mặc dù vậy, hiệu quả đạt được chưa thực sự rõ rệt. Ngành y tế đã đặt ra mục tiêu chỉ bán kháng sinh khi có đơn thuốc vào năm 2020 nhưng hiện giờ đến năm 2022 vẫn chưa thành công. Tương tự, ngành chăn nuôi cũng dự kiến cấm sử dụng thức ăn chăn nuôi có pha trộn kháng sinh cho mục đích sinh trưởng từ năm 2018, và sẽ cấm sử dụng cho mục đích dự phòng bệnh từ năm 2020, tuy nhiên tiến trình còn đang gặp nhiều thách số bệnh viện lớn tham gia các dự án cho thấy có sự cải thiện về tỷ lệ sử dụng kháng sinh trong điều trị. Ngoài ra, không có báo cáo công khai nào về giảm sử dụng kháng sinh trong ngành nông nghiệp hoặc trong cộng các chuyên gia dịch tễ toàn cầu, “Một sức khỏe” được coi là cách tiếp cận lý tưởng nhất để chống lại các bệnh dịch và tình trạng kháng kháng sinh vì chúng đặt tất cả sức khỏe của con người, động vật và môi trường trong một mối quan tâm góc nhìn thực hành một sức khỏe ở Việt Nam, TS. Phúc nói rằng dù đã tạo được các nền tảng căn bản, chúng ta vẫn còn vướng nhiều rào cản về nguồn lực đầu tư hỗ trợ nước ngoài không thay thế được ngân sách công, chia sẻ thông tin không dễ liên thông dữ liệu giữa các dự án, phòng thí nghiệm, bệnh viện, viện trường, cơ quan, bộ ngành và tư duy tích hợp các bên ngồi lại để cùng thiết kế ra các chương trình hành động thống nhất để có thể tạo ra những liên kết đủ mạnh giải quyết vấn đề nhức nhối này. Đã xuất hiện siêu vi khuẩn kháng tất cả các loại kháng sinhTại một hội nghị của Bộ Y tế về kháng thuốc cuối tháng Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến nhấn mạnh, tình trạng kháng thuốc ngày càng trầm trọng và là mối nguy đe doạ sức khoẻ toàn cầu. Tình trạng kháng thuốc kháng sinh gây tác động lớn đến nền kinh tế, sự phát triển chung của xã hội. Không chỉ riêng đối với Việt Nam nó còn tác động đến tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là trong thời đại toàn cầu hoá hiện trạng kháng kháng sinh tại Việt Nam ngày càng gia tăng khi xuất hiện một vài loại siêu vi khuẩn kháng lại tất cả các loại thuốc. Tại hội nghị khoa học toàn quốc về hồi sức cấp cứu và chống độc 2017, GS Nguyễn Gia Bình - Chủ tịch Hội Hồi sức cấp cứu và Chống độc - bày tỏ lo ngại về tình trạng kháng kháng sinh tại nước ta. Theo ông, hầu hết các cơ sở khám chữa bệnh đang phải đối mặt với tốc độ lan rộng của các vi khuẩn kháng nhiều nhóm kháng sinh. Trong đó tình hình kháng thuốc tại các tỉnh phía Nam nghiêm trọng các khoa hồi sức tích cực, vấn đề này còn nan giải hơn, do nơi đây tập trung những bệnh nhân nặng nhất, qua nhiều khoa điều trị. Tại các tỉnh phía Nam, tỉ lệ Ecoli vi khuẩn đường ruột kháng kháng sinh lên tới 74,6%; tỉ lệ kháng của vi khuẩn gây nhiễm trùng lên tới gần 60%; vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện có tỉ lệ kháng với hầu hết các loại kháng sinh ở mức trên 90%... Với nhóm kháng sinh carbapenem, nhóm kháng sinh mạnh nhất hiện nay cũng có tỉ lệ lên tới 50%, đặc biệt là các vi khuẩn gram âm mang gen kháng thuốc như Beta Lương Ngọc Khuê - Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh, Bộ Y tế - cho biết, trong khi nhiều quốc gia phát triển đang còn sử dụng kháng sinh thế hệ 1 có hiệu quả thì Việt Nam đã phải sử dụng tới kháng sinh thế hệ 3 và 4. Đáng lo ngại hơn, ở nước ta đã xuất hiện một vài loại siêu vi khuẩn kháng lại tất cả các loại kháng sinh. Phổ biến nhất là nhóm vi khuẩn gram âm đường trạng các bác sĩ sử dụng kháng sinh không hợp lý cũng được cảnh báo. Theo khảo sát của BV Chợ Rẫy, khoảng 50% kháng sinh được bác sĩ kê đơn bất hợp lý; 32% bác sĩ chỉ định sử dụng kháng sinh cho các bệnh nhân không nhiễm khuẩn; 33% bác sĩ sử dụng kháng sinh kéo dài và không cần thiết… Trong khi tốc độ tìm ra kháng sinh mới trên thế giới không kịp so với mức độ gia tăng của các vi khuẩn kháng kháng hơn 5 năm từ 1983 - 1987, cơ quan Quản lý Dược và Thực phẩm Mỹ mới chỉ cấp giấy chứng nhận sử dụng cho 18 loại kháng sinh. Còn từ năm 2008 đến nay không có thêm kháng sinh mới nào được tìm ra. Với tình hình này, WHO dự tính đến năm 2050, cứ 3 giây sẽ có một người tử vong do các siêu vi khuẩn kháng thuốc, tương đương với khoảng 10 triệu người mỗi năm. Khi đó, các bệnh thông thường như ho hay chỉ một vết cắt cũng có thể gây tử hạn chế tình trạng này, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ra quyết định thành lập nhóm kỹ thuật về giám sát kháng thuốc giai đoạn từ năm 2017-2020. Nhóm sẽ có nhiệm vụ tham gia phối hợp, đánh giá, báo cáo giám sát về kháng thuốc và đưa ra các giải pháp ngăn chặn sự gia tăng kháng thuốc của vi khuẩn gây bệnh thường ngại kháng kháng sinh ở trẻ nhỏỞ trẻ nhỏ, tình trạng kháng kháng sinh cũng vô cùng nghiêm trọng. Từ kết quả khám sàng lọc bệnh nhi đến khám và điều trị tại viện, PGS-TS Trần Minh Điển - Phó Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương - cho biết có khoảng 30% bệnh nhi có vi khuẩn kháng thuốc. Một trong những nguyên nhân làm trẻ có vi khuẩn kháng thuốc là do nhiều trẻ được các ông bố bà mẹ tự ra hiệu thuốc mua thuốc điều trị với liều lượng kháng sinh không hợp tế thăm khám cho các bệnh nhi, PGS-TS Nguyễn Tiến Dũng - nguyên Trưởng khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai - đã gặp rất nhiều trường hợp cha mẹ tự làm bác sĩ, tự ý mua thuốc điều trị cho con làm ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ và gây khó khăn cho quá trình điều trị của bác sĩ. Bởi, việc cha mẹ tự ý cho trẻ dùng thuốc kháng sinh, dùng với liều lượng không thích hợp sẽ gây ra tình trạng kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn gây bệnh. Điều này sẽ làm cho quá trình điều trị bệnh trở nên khó khăn hơn, tốn nhiều thời gian hơn và làm trẻ mệt mỏi hơn.“Để kê được đơn thuốc cho bệnh nhân, bác sĩ chúng tôi phải học hỏi, trau dồi kỹ năng rất nhiều năm. Và kể cả những người đã có kinh nghiệm cũng phải thăm khám, hỏi han triệu chứng của bệnh nhân, rồi sau đó phải đắn đo, suy nghĩ mới kê được đơn thuốc” - bác sĩ Dũng cho quan điểm với bác sĩ Dũng, bác sĩ Phạm Thanh Xuân - nguyên Phó Trưởng khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai - cũng cho rằng, cha mẹ áp dụng phương pháp hỏi “bác sĩ google” rồi tự ý mua thuốc điều trị bệnh là rất nguy phải bệnh gì dùng thuốc kháng sinh cũng khỏi, nếu dùng không đúng sẽ nguy hại đến sức khỏe. Đặc biệt, đối với trẻ nhỏ, việc lạm dụng kháng sinh trong điều trị bệnh sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển và sức khỏe của trẻ. Không thể thấy các biểu hiện của bé giống bệnh này rồi tự ý mua thuốc điều trị bệnh. Hoặc không nên thấy các mẹ khác nói con họ bị như vậy dùng thuốc này là khỏi mà nghe theo và áp dụng vào con mình. Mỗi đứa trẻ là một cá thể khác nhau, phản ứng mỗi bé một khác, yếu tố cơ địa mỗi bé một khác nên cùng một bệnh nhưng với mỗi bé lại có cách điều trị sĩ Xuân lấy ví dụ trường hợp bé chỉ xuất tiết mũi họng khò khè không phải do nhiễm khuẩn. Với trường hợp này mà dùng kháng sinh thì chắc chắn bé sẽ không đỡ và sẽ tái phát theo nguyên nhân gây nên yếu tố khò khè. Và cũng là dấu hiệu khò khè, chảy nước mũi kéo dài nhưng bé có tiền sử hen phế quản thì cách điều trị lại khác với bé không bị hen phế quản. Tuy nhiên, nhiều phụ huynh không hiểu biết hoặc không tuân thủ chỉ định của bác cạnh đó, tình trạng lạm dụng thuốc, không đến khám bác sĩ mà tự ý ra hiệu thuốc mua thuốc về điều trị, mua thuốc theo đơn của người khác hoặc nghe theo sự mách bảo của người khác… cũng góp phần làm gia tăng số lượng và mức độ các trường hợp dị ứng thuốc. Và hậu quả của việc lạm dụng thuốc dẫn đến kháng thuốc là làm cho thời gian điều trị bệnh kéo dài, kéo theo sử dụng nhiều kháng sinh, sẽ lại ảnh hưởng đến kinh tế, giá thành điều trị tăng cao. Đặc biệt, nhiều khuẩn kháng thuốc còn khiến nguy cơ tử vong tăng cao, nhất là với nhiễm trùng huyết, sốc nhiễm tại Vĩnh Phúc, Bộ Y tế phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Tổ chức Y tế Thế giới tại Việt Nam và Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc tại Việt Nam tổ chức Lễ phát động cam kết sử dụng kháng sinh có trách nhiệm. Đây là sự kiện đầu tiên bắt đầu Tuần lễ nhận thức kháng sinh từ đến ở Việt Thùy LinhLao động Tổ chức Y tế Thế giới xếp Việt Nam vào nhóm các nước có tỉ lệ kháng kháng sinh cao nhất thế giới. Từ năm 2009 đến nay, số lượng thuốc kháng sinh ở Việt Nam bán ra ngoài cộng đồng đã tăng gấp 2 lần. Nguyên nhân chính là do lạm dụng kháng sinh, có tới 88% kháng sinh tại thành thị được bán ra mà không cần kê đơn, ở nông thôn tỉ lệ lên đến 91%. Đã xuất hiện siêu vi khuẩn kháng tất cả các loại kháng sinh Tại một hội nghị của Bộ Y tế về kháng thuốc cuối tháng Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến nhấn mạnh, tình trạng kháng thuốc ngày càng trầm trọng và là mối nguy đe doạ sức khoẻ toàn cầu. Tình trạng kháng thuốc kháng sinh gây tác động lớn đến nền kinh tế, sự phát triển chung của xã hội. Không chỉ riêng đối với Việt Nam nó còn tác động đến tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là trong thời đại toàn cầu hoá hiện nay. Tình trạng kháng kháng sinh tại Việt Nam ngày càng gia tăng khi xuất hiện một vài loại siêu vi khuẩn kháng lại tất cả các loại thuốc. Tại hội nghị khoa học toàn quốc về hồi sức cấp cứu và chống độc 2017, GS Nguyễn Gia Bình – Chủ tịch Hội Hồi sức cấp cứu và Chống độc – bày tỏ lo ngại về tình trạng kháng kháng sinh tại nước ta. Theo ông, hầu hết các cơ sở khám chữa bệnh đang phải đối mặt với tốc độ lan rộng của các vi khuẩn kháng nhiều nhóm kháng sinh. Trong đó tình hình kháng thuốc tại các tỉnh phía Nam nghiêm trọng hơn. Tại các khoa hồi sức tích cực, vấn đề này còn nan giải hơn, do nơi đây tập trung những bệnh nhân nặng nhất, qua nhiều khoa điều trị. Tại các tỉnh phía Nam, tỉ lệ Ecoli vi khuẩn đường ruột kháng kháng sinh lên tới 74,6%; tỉ lệ kháng của vi khuẩn gây nhiễm trùng lên tới gần 60%; vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện có tỉ lệ kháng với hầu hết các loại kháng sinh ở mức trên 90%… Với nhóm kháng sinh carbapenem, nhóm kháng sinh mạnh nhất hiện nay cũng có tỉ lệ lên tới 50%, đặc biệt là các vi khuẩn gram âm mang gen kháng thuốc như Beta lactamase. PGS-TS Lương Ngọc Khuê – Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh, Bộ Y tế – cho biết, trong khi nhiều quốc gia phát triển đang còn sử dụng kháng sinh thế hệ 1 có hiệu quả thì Việt Nam đã phải sử dụng tới kháng sinh thế hệ 3 và 4. Đáng lo ngại hơn, ở nước ta đã xuất hiện một vài loại siêu vi khuẩn kháng lại tất cả các loại kháng sinh. Phổ biến nhất là nhóm vi khuẩn gram âm đường ruột. Tình trạng các bác sĩ sử dụng kháng sinh không hợp lý cũng được cảnh báo. Theo khảo sát của BV Chợ Rẫy, khoảng 50% kháng sinh được bác sĩ kê đơn bất hợp lý; 32% bác sĩ chỉ định sử dụng kháng sinh cho các bệnh nhân không nhiễm khuẩn; 33% bác sĩ sử dụng kháng sinh kéo dài và không cần thiết… Trong khi tốc độ tìm ra kháng sinh mới trên thế giới không kịp so với mức độ gia tăng của các vi khuẩn kháng kháng sinh. Trong hơn 5 năm từ 1983 – 1987, cơ quan Quản lý Dược và Thực phẩm Mỹ mới chỉ cấp giấy chứng nhận sử dụng cho 18 loại kháng sinh. Còn từ năm 2008 đến nay không có thêm kháng sinh mới nào được tìm ra. Với tình hình này, WHO dự tính đến năm 2050, cứ 3 giây sẽ có một người tử vong do các siêu vi khuẩn kháng thuốc, tương đương với khoảng 10 triệu người mỗi năm. Khi đó, các bệnh thông thường như ho hay chỉ một vết cắt cũng có thể gây tử vong. Để hạn chế tình trạng này, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ra quyết định thành lập nhóm kỹ thuật về giám sát kháng thuốc giai đoạn từ năm 2017-2020. Nhóm sẽ có nhiệm vụ tham gia phối hợp, đánh giá, báo cáo giám sát về kháng thuốc và đưa ra các giải pháp ngăn chặn sự gia tăng kháng thuốc của vi khuẩn gây bệnh thường gặp. Lo ngại kháng kháng sinh ở trẻ nhỏ Ở trẻ nhỏ, tình trạng kháng kháng sinh cũng vô cùng nghiêm trọng. Từ kết quả khám sàng lọc bệnh nhi đến khám và điều trị tại viện, PGS-TS Trần Minh Điển – Phó Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương – cho biết có khoảng 30% bệnh nhi có vi khuẩn kháng thuốc. Một trong những nguyên nhân làm trẻ có vi khuẩn kháng thuốc là do nhiều trẻ được các ông bố bà mẹ tự ra hiệu thuốc mua thuốc điều trị với liều lượng kháng sinh không hợp lý. Thực tế thăm khám cho các bệnh nhi, PGS-TS Nguyễn Tiến Dũng – nguyên Trưởng khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai – đã gặp rất nhiều trường hợp cha mẹ tự làm bác sĩ, tự ý mua thuốc điều trị cho con làm ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ và gây khó khăn cho quá trình điều trị của bác sĩ. Bởi, việc cha mẹ tự ý cho trẻ dùng thuốc kháng sinh, dùng với liều lượng không thích hợp sẽ gây ra tình trạng kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn gây bệnh. Điều này sẽ làm cho quá trình điều trị bệnh trở nên khó khăn hơn, tốn nhiều thời gian hơn và làm trẻ mệt mỏi hơn. “Để kê được đơn thuốc cho bệnh nhân, bác sĩ chúng tôi phải học hỏi, trau dồi kỹ năng rất nhiều năm. Và kể cả những người đã có kinh nghiệm cũng phải thăm khám, hỏi han triệu chứng của bệnh nhân, rồi sau đó phải đắn đo, suy nghĩ mới kê được đơn thuốc” – bác sĩ Dũng cho biết. Đồng quan điểm với bác sĩ Dũng, bác sĩ Phạm Thanh Xuân – nguyên Phó Trưởng khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai – cũng cho rằng, cha mẹ áp dụng phương pháp hỏi “bác sĩ google” rồi tự ý mua thuốc điều trị bệnh là rất nguy hiểm. Không phải bệnh gì dùng thuốc kháng sinh cũng khỏi, nếu dùng không đúng sẽ nguy hại đến sức khỏe. Đặc biệt, đối với trẻ nhỏ, việc lạm dụng kháng sinh trong điều trị bệnh sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển và sức khỏe của trẻ. Không thể thấy các biểu hiện của bé giống bệnh này rồi tự ý mua thuốc điều trị bệnh. Hoặc không nên thấy các mẹ khác nói con họ bị như vậy dùng thuốc này là khỏi mà nghe theo và áp dụng vào con mình. Mỗi đứa trẻ là một cá thể khác nhau, phản ứng mỗi bé một khác, yếu tố cơ địa mỗi bé một khác nên cùng một bệnh nhưng với mỗi bé lại có cách điều trị riêng. Bác sĩ Xuân lấy ví dụ trường hợp bé chỉ xuất tiết mũi họng khò khè không phải do nhiễm khuẩn. Với trường hợp này mà dùng kháng sinh thì chắc chắn bé sẽ không đỡ và sẽ tái phát theo nguyên nhân gây nên yếu tố khò khè. Và cũng là dấu hiệu khò khè, chảy nước mũi kéo dài nhưng bé có tiền sử hen phế quản thì cách điều trị lại khác với bé không bị hen phế quản. Tuy nhiên, nhiều phụ huynh không hiểu biết hoặc không tuân thủ chỉ định của bác sĩ. Bên cạnh đó, tình trạng lạm dụng thuốc, không đến khám bác sĩ mà tự ý ra hiệu thuốc mua thuốc về điều trị, mua thuốc theo đơn của người khác hoặc nghe theo sự mách bảo của người khác… cũng góp phần làm gia tăng số lượng và mức độ các trường hợp dị ứng thuốc. Và hậu quả của việc lạm dụng thuốc dẫn đến kháng thuốc là làm cho thời gian điều trị bệnh kéo dài, kéo theo sử dụng nhiều kháng sinh, sẽ lại ảnh hưởng đến kinh tế, giá thành điều trị tăng cao. Đặc biệt, nhiều khuẩn kháng thuốc còn khiến nguy cơ tử vong tăng cao, nhất là với nhiễm trùng huyết, sốc nhiễm khuẩn. Nguồn Báo Dân Trí

kháng kháng sinh ở việt nam